AI RỒI CŨNG CHẾT, CHÚNG TA TỐT NHẤT NÊN HỌC CÁCH CHẤP NHẬN ĐIỀU NÀY!

Đối mặt với cái chết (Two Women on the Shore – Edvard Munch)

Nguồn ảnh: Flickr

James Kirby

Nghiên cứu sinh Tâm lý Lâm sàng tại Đại học Queensland

Đây là bài thứ 3 trong series “Đương đầu với sự hữu hạn của cuộc sống”, tập trung vào nỗi sợ chết ở từng độ tuổi và cách để đương đầu với cái chết không thể tránh khỏi ở mỗi người. Bài viết tiếp theo sẽ bàn về dịch vụ chăm sóc tinh thần tại các cơ sở chăm sóc người cao tuổi.

Nỗi sợ chết – hoặc lo âu về cái chết – thường được nhìn nhận như một trong những lo hãi thường gặp nhất. Tuy nhiên điều thú vị là cả hai cuốn sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần được dùng rộng rãi, DSM-5 hay ICD-10, đều không đề cập đến lo âu về cái chết.

Trong hai cuốn sổ tay vừa kể trên, cái chết được liên hệ tới một vài rối loạn lo âu gồm các ám sợ đặc hiệu (specific phobias), lo âu xã hội (society anxiety), rối loạn hoảng loạn (panic disorder), chứng sợ khoảng rộng(agoraphobia), rối loạn stress sau sang chấn (post-traumatic stress disorder) và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Tuy nhiên nhiều nhà tâm lý tranh luận rằng những nỗi sợ này chỉ là những biểu hiện nhỏ của một nỗi sợ lớn hơn – nỗi sợ chết.

Trị liệu hiện sinh trực tiếp nhắm tới cái chết và ý nghĩa cuộc sống. Phương pháp này được thực hành bởi nhà tâm thần học Irvin Yalom, người đi tiên phong trong việc tìm hiểu nỗi sợ chết và cách thức điều trị hiện tượng trên trong tâm lý trị liệu. Ông đã viết một cuốn sách được nhiều người biết đến về đề tài này, “Staring at the Sun: Overcoming the Terror of Death” – Nhìn về phía Mặt Trời: Vượt qua Nỗi sợ Cái chết. Trị liệu hiện sinh là một cách để điều trị nỗi lo âu về cái chết. Tuy nhiên, dù sử dụng bất kỳ cách tiếp cận tâm lý nào, chủ đề tiếp cận nền tảng nhìn chung đều như nhau: sự chấp nhận (acceptance).

Tại sao cái chết lại đáng sợ?

Mọi sự sống đều có điểm chung là cái chết, song bất ngờ thay chúng ta lại rất ít khi thực sự nói về nó. Ít nhất trong nền văn hóa phương Tây, khái niệm này có lẽ quá nặng nề để đề cập. Nhưng từ góc nhìn tâm lý lâm sàng, chúng ta càng tránh né chủ đề, tình huống, suy nghĩ hoặc cảm xúc nào thì nỗi sợ về nó càng lớn hơn và chúng ta lại càng muốn tránh né nó thêm. Một vòng luẩn quẩn đầy tiêu cực (a vicious cycle).

Nếu một thân chủ có lo âu về cái chết đến trị liệu, chúng ta sẽ cần hỏi họ chính xác điều gì khiến họ cảm thấy sợ hãi về cái chết. Yalom từng hỏi một thân chủ điều gì khiến anh ta phiền lòng nhất. Thân chủ trả lời, “Năm tỷ năm tới tôi sẽ không hiện diện.”.

Yalom sau đó hỏi, “Liệu anh có phiền lòng vì mình vắng mặt trong suốt năm tỷ năm trước đây không?”.

Nỗi sợ chết sẽ khác biệt ở từng người, song nó thường được phân loại vào một trong bốn khu vực sau: mất mát bản thân hoặc một ai đó; mất khả năng kiểm soát; nỗi sợ những điều chưa biết – những điều xảy đến sau cái chết (hư vô, thiên đường, địa ngục); và đau đớn cùng chịu đựng khi hấp hối.

Yalom gợi ý rằng các nhà tâm lý học nên nói về cái chết trực tiếp và ngay từ giai đoạn đầu của quá trình trị liệu. Nhà tâm lý cũng nên tìm ra thời điểm thân chủ lần đầu ý thức được về cái chết, họ bàn luận về nó với ai, những người trưởng thành trong cuộc đời họ trả lời câu hỏi đó như thế nào và liệu thái độ của họ với cái chết thay đổi ra sao qua thời gian.

Một khi chúng ta hiểu về mối liên hệ của thân chủ đối với cái chết, có một số hướng tiếp cận có thể giúp quản lý lo âu liên quan đến cái chết. Các tiếp cận bao gồm: trị liệu hiện sinh (existantential therapy), trị liệu nhận thức hành vi (cognitive behavior therapy), trị liệu chấp nhận và cam kết (acceptance and commitment therapy) và trị liệu tập trung vào lòng trắc ẩn (compassion-focused therapy).

Làm cách nào để làm việc với lo âu về cái chết?

Ở một trong những nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu trực tiếp lo âu về cái chết, trị liệu nhận thức hành vi CBT được chứng minh thành công trong việc điều trị chứng lo âu ở những người có chứng nghi bệnh hay bệnh tưởng (hypochondria) – rối loạn hay nghi ngờ mình mang bệnh nào đó. Những kỹ thuật được sử dụng bao gồm đối diện – exposure (đi đến đám tang), các kĩ thuật thư giãn (hít thở) và kiến tạo những suy nghĩ linh hoạt quanh cái chết ví dụ như nhận ra rằng sợ hãi cái chết là một điều bình thường.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng CBT nên đi kèm một số cách thức khám phá xác suất của những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, ví dụ như tính toán cơ hội mà cha mẹ bạn gặp nhau và sinh ra bạn. Những kỹ thuật như vậy có thể thay đổi góc nhìn của chúng ta từ một nỗi sợ tiêu cực về cái chết sang nhận thức tích cực rằng chúng ta có may mắn được trải nghiệm cuộc sống.

Trị liệu hiện sinh đã và đang cho thấy hiệu quả trong việc điều trị lo âu về cái chết. Nó tập trung vào những mối bận tâm hiện sinh lớn nhất như sự cô lập. Ví dụ, chúng ta có nhu cầu sâu thẳm về việc được thuộc về và có gia đình, bè bạn, theo một cách nào đó chúng có ý nghĩa như chúng ta có thể tiếp tục sống sau khi đã chết.

Phương pháp điều trị này hướng trực tiếp đến việc tìm kiếm ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, gia tăng hỗ trợ tâm lý và xã hội, gầy dựng các mối quan hệ với bạn bè và gia đình, cũng như cải thiện kỹ năng đương đầu để quản lý lo âu trong cuộc sống thường nhật.

Trong trị liệu tập trung vào lòng trắc ẩn (CFT), thân chủ được khuyến khích đi vào thực tế trải nghiệm con người. Đó là nhận thức được chúng ta chỉ có khoảng 25,000 đến 30,000 ngày để sống. Đau khổ được bình thường hóa và quỹ đạo cuộc đời được nhấn mạnh là tương đương nhau ở tất cả mọi người: chúng ta đến thế giới này, lớn lên, nở rộ rồi xuống dốc và chết.

CFT nói đến việc bộ não của con người có khả năng tuyệt diệu trong việc tưởng tượng và đặt câu hỏi về sự tồn tại của chúng ta – điều chúng ta hiện biết là phẩm chất độc nhất của con người. Chúng ta sau đó sẽ nói với thân chủ: “Liệu bạn tự thiết kế bộ não của mình để có được khả năng đó?”. Tất nhiên câu trả lời sẽ là một lời phủ nhận chắc chắn.

Vì thế, chúng ta có thể làm việc trên nguyên tắc lo âu về cái chết không phải là lỗi của thân chủ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải làm việc với bộ não sao cho chúng không làm tê liệt khả năng sống của chúng ta.

Trong CFT chúng ta sẽ thỉnh thoảng sử dụng những cụm từ: “Bộ não của chúng ta được thiết kế để sinh tồn chứ không phải để hạnh phúc.”. Các chiến lược được phát triển từ tiếp cận này bao gồm khám phá có hướng dẫn (đi chậm lại và trao cho thân chủ cơ hội tự đưa ra những suy nghĩ, nội thị, quan điểm nội tại của mình) và làm chậm nhịp thở.

Mặc dù có những khác biệt nhỏ giữa các cách tiếp cận, những phương pháp trị liệu này đều có chung một chủ đề bên dưới. Cái chết là một điều gì đó chúng ta cần học cách chấp nhận. Chìa khóa trước lo âu về cái chết là bằng cách nào chúng ta thoát khỏi đầu óc lo âu và đi vào trong đời sống.

Một số gợi ý có thể hỗ trợ bạn

Nếu bạn đang gặp khó khăn với lo âu về cái chết, hãy cân nhắc đến gặp một nhà tâm lý. Nhưng ngay lúc này, đây là ba gợi ý có thể hữu ích cho các bạn:

  1. Bình thường hóa trải nghiệm. Chúng ta có một bộ não cho phép chúng ta hoài nghi, đặt câu hỏi về sự tồn tại của mình. Đây không phải là lỗi của bạn nhưng là cách bộ não con người được thiết kế. Việc có nỗi sợ chết là hoàn toàn bình thường; bạn không đơn độc trong khó khăn này.
  2. Hít thở. Khi bạn nhận thấy nỗi lo âu tràn vào cơ thể và tâm trí, hãy cố gắng làm chậm nhịp thở của mình vài lần để giúp làm chậm các phản ứng sinh lý cũng như trong suy nghĩ.
  3. Viết một bài điếu văn cho riêng bạn. Giả vờ như đây là đám tang của bạn và bạn cần phải đọc một bài điếu văn. Bạn sẽ viết gì? Bạn muốn cuộc sống của bạn có mục đích gì? Việc này có thể mang lại một vài ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của bạn ở thời điểm hiện tại.

Saigon Psychub dịch từ:

https://theconversation.com/everything-dies-and-its-best-we-learn-to-live-with-that-59384

Để lại bình luận